Trang

Chủ Nhật, 23 tháng 3, 2014

Văn học và văn hóa tâm linh

Trần Đình Sử

Văn học và văn hóa tâm linh (mysterious culture) vốn có mối liên hệ khăng khít trong lịch sử văn học của bất cứ dân tộc nào. Một thời gian dài do quan niệm duy vật thô sơ, cực đoan, đồng nhất văn học với nhận thức khoa học, với chính trị, chúng ta chẳng những bài xích các hiện tượng hiện thượng tâm linh nói chung, xem là mê tín dị đoan, mà còn phê phán chúng như là hiện tượng phi, phản khoa học, phi lí tính trong đời sống và cả trong văn học. Nhưng từ thời đổi mới đến nay, khi quan niệm ấu trĩ được khắc phục dần, lại thêm mở của giao lưu rộng rải với văn hóa thế giới, yếu tố tâm linh lại trở về với văn học, và hôm nay trở thành đề tài nghiên cứu khoa học. Sự đổi thay ấy hoàn toàn có cơ sở, bởi vì con người từ thời nguyên thủy đã kí thác niềm tin của mình vào các lực lượng siêu nhiên. Cùng với ựu phát triển của khoa học và lí trí niềm tin siêu nhiên giảm dần, song không biến mất, bởi vì cuộc sống vẫn tràn đầy bí ẩn, cái ngẫu nhiên vẫn ngự trị trong đời sống cá nhân và xã hội, lí trí và mù quáng không tách rời. Khi lịch sử nhân loại vừa là lịch sử của lí trí, vừa là lịch sử của vô thức, phi lí tính, thì cái tâm linh vẫn còn là hiện tượng cần được xem xét cả trong thực tế lẫn trong văn học.

1. Con người và tâm linhvà văn hóa tâm linh

Con người từ cổ sơ vốn là động vật tâm linh, trên con đường tách dần khỏi sự phụ thuộc vào thiên nhiên đã lần lượt trải qua các hoạt động vu thuật, tô tem, tôn giáo, đa thần, phiếm thần, thần thoại, cho dù khi nhân loại đã bước vào thời khai sáng, khoa học kĩ thuât phát triển, nhưng còn biết bao câu hỏi về số phận của từng người cụ thể vẫn không thể giải thích, giải quyết được, và con người vẫn gửi gắm niềm tin vào lĩnh vực tâm linh. Cho đến bây giờ con người vẫn tin vào tử vi, bát quái, phong thủy, tướng số, sấm ngữ, chọn ngày lành tháng tốt để làm các việc, tin có thế giới bên kia, tin vào sự bảo trợ của các sức mạnh siêu nhiên, tin ác giả ác báo, tin vào anh linh người đã mất, tôn thờ gia tiên, các tôn giáo, tín ngưỡng. Ngoài ra con người vẫn thường nằm mơ, có giác quan thứ sáu, có trực giác đi trước nhận thức, có năng lực ngoại cảm mà khoa học chưa thể giải thích. Giải thích mộng như Freud chỉ là một cách quy vào bản năng tính dục, còn giải thích vô thức tập thể của Jung chỉ là sự thừa nhận tâm linh nhân loại. Các nhà khoa học lớn vẫn tin vào tôn giáo. Các nhà duy vật kiên định nhất thời đại ta vẫn đều đặn đi chùa, thăm đền mỗi dịp lễ tết hoặc khi gặp sự kiện trọng đại. Người Trung Quốc ngày nay hẳn ai cũng biết, Mao Trạch Đông trước khi làm lễ khai sinh nước CHNDTH đã lên núi Ngũ Đài Sơn xin thẻ, xin được chữ “thượng thượng cát” mới tổ chức linh đình ngày lễ lớn. Cứ thế mà suy nhiều ngày lễ lớn ở nước khác hẳn cũng không bỏ qua các thủ tục tương tự.  Không thể cho rằng đó chỉ là tàn dư văn hóa thời trung đại khi ánh sáng Khai sáng của thời Khoa học Văn minh chưa chiếu rọi khắp tâm hồn, xã hội. Phải nói ngay rằng trong văn hóa tâm linh còn có xen lẫn nhiều yếu tố mê tín dị đoan, phi khoa học, phản khoa học, có hại cho đời sống. Ví dụ như chữa bệnh bằng bùa chú, trừ ma đuổi tà, uống nước thánh mà Vũ Trọng Phụng đã giễu. Tuy nhiên mặt khác, tâm linh còn là phương thức tồn tại của con người, bởi vì khoa học chủ yếu tìm hiểu các quy luật chung, còn cuộc sống xã hội cũng như cuộc đời riêng của mỗi cá nhân vẫn chủ yếu do các quy luật ngẫu nhiên chi phối, nó là sự gặp gỡ của các quy luật chung. Nhưng các quy luật chung ấy bao giờ gặp nhau, gặp ở đâu, không ai biết trước. Các nhân vật lỗi lạc cũng như mọi người bình thường đều sinh ra ngẫu nhiên, chết ngẫu nhiên, các cuộc chiến tranh xảy ra ngẫu nhiên, kết thúc ngẫu nhiên, các thời cơ xuất hiện ngẫu nhiên, theo những khả năng mà mỗi người trong cuộc không sao nắm bắt hết. Xét từ góc độ hiện sinh, con người cá nhân vốn là một tự do lựa chọn, nhưng, tham số lựa chọn của nó rất hữu hạn, bản thân rất cô đơn. Xét về mặt tâm lí, con người không phải bao giờ cũng xử sự theo lí tính, phần cảm tính, ngẫu hứng, trong đó tâm linh là một bộ phận của phi lí tính đóng vai trò rất to lớn. Tất nhiên phạm vi phi lí tính rộng hơn tâm linh, vì nó gồm cả phạm vi vô thức, mặc cảm, ngộ nhận…đều không phải tâm linh. Nhiều ý hướng tâm linh được lí tính hóa, logich hóa như âm dương ngũ hành, thiên nhân cảm ứng, đạo Phật, đạo Thiên chúa…nhưng lõi cốt vẫn là tâm linh phi lí tính. Cho nên ngoài nguồn thông tin do các khoa học đem lại, con người còn muốn có thêm các thông tin bổ sung, cầu mong các lực lượng siêu nhiên phù trợ. Như thế lịch sử nhân loại, dân tộc không chỉ do thuần lí tính tạo nên như ta tưởng, mà phần lớn do cả phần phi lí tính, phần vô thức, phần tâm linh trong xã hội tạo nên. Xét về góc độ nhân loại học văn hóa tâm linh là một bình diện của văn hóa các tộc người, gắn với phong tục tập quán, cố định trong ngôn ngữ, đúc rút thành các motyp, các mẫu gốc thi pháp của các truyện kể truyền thống. Cho nên văn hóa tâm linh sẽ theo suốt cuộc tồn tại của các dân tộc trên trái đất, gắn với con người và thể hiện trong văn học nghệ thuật. Trong con người hiện đai vẫn đan xen con người khoa học và con người tâm linh, chung sống với nhau trong một cơ thể, một tâm hồn.

2. Tâm linh và văn học

Văn học phản ánh hiện thực thì tất nhiên phản ánh yếu tố tâm linh vào văn học. Đọc hết các tác phẩm chữ Hán như Đại Việt sử kí toàn thưĐại Việt thông sử, đọc Lĩnh Nam chích quáiViệt điện u linhTruyền kì mạn lục, Truyền kì tân phả, Thánh Tông di thảo, Hoàng Lê nhất thống chí và bao nhiêu danh tác của kho tàng văn học trung đại Việt Nam có nơi nào con người trong đó không gắn chặt với thế giới tâm linh? Đọc sang văn học Trung Quốc từ Li Tao, Sử kí, Tam Quốc diễn nghĩa, Thủy Hử, Tây Du kí, đến Hồng Lâu mộng, có tác phẩm nào không thấm nhuần văn hóa tâm linh? Các truyện nôm như Truyện Kiều, Nhị Độ Mai, Phan Trần, Lục Vân Tiên, Thạch Sanh, Tống Trân Cúc Hoa… có tác phẩm nào là không gắn với văn hóa tâm linh? Tác phẩm văn học đương đại như của G. Marquez và  Mạc Ngôn đều đậm chất tâm linh. Tâm linh ở đó là một phần của cuộc sống con người trong đó. Thiếu yếu tố tâm linh sự miêu tả văn học sẽ thiếu chân thục.

Tâm linh trong văn học gắn với ước mơ khát vọng cuộc sống hạnh phúc, tốt đẹp, trường thọ, giàu có, mạnh mẽ, uy lực, khả nắng vượt qua mọi trở lực, vượt lên thế giới hữu hạn.

Tuy nhiên vị trí của yếu tố tâm linh trong văn học có tính chất lịch sử. Vào thời cổ đại, trung đại, khi tư tưởng khái sáng chưa chiếu rọi yếu tố tâm linh chiếm địa vị chủ đạo.  Bởi tất cả mọi người đương thời chỉ tồn tại trong thế giới tâm linh, mang giá trị tâm linh, được thể hiện trong diễn ngôn tâm linh của thời đại. Nghiên cứu văn học trung đại mà bỏ qua diễn ngôn tâm linh, bản thể tâm linh, chỉ giải thích hoàn toàn theo quan niệm chủ nghĩa hiện thực, chủ nghĩa duy vật hiện đại là sai lầm căn bản của học thuật một thời, tưởng đã đến lúc cần phải dứt khoát thay đổi. Ông Trần Đình Hượu đã từng có nhận xét rất sâu sắc: “Hướng vào thực tại bằng tâm chí không dắt văn học đến con đường hiện thực.”[1] Ông nhấn mạnh đến vai trò của thế giới quan tâm chí. Tuy nhiên trong công trình của mình Trần Đình Hượu chỉ tập trung phân tích truyền thống nho giáo, chứ chưa xem xét vấn đề ở bản thể tâm linh. Ngược lại, văn học một khi đã phản ánh hiện thực thì không tránh khỏi phản ánh tâm linh con người.

Bước vào thời hiện đại, ảnh hưởng của quan niệm khoa học khai sáng phương Tây khiến cho truyền thống văn hóa tâm linh bị coi là mê tín dị đoan, phản khoa học. Đối với khoa học, tâm linh là lĩnh vực của những điều chưa thể chứng minh bằng khoa học. Nhưng đối với văn hóa, đó là lĩnh vực của  “phong tục”(Phan Kế Bính), là “nếp cũ” (Toan Ánh), thấm sâu trong tiềm thức con người. Ý thức văn học hiện đại, do ảnh hưởng của khoa học đã hướng về thực tại khách quan, thu hẹp phạm vi của thế giới quan tâm linh. Nhưng con người thực tế vẫn duy trì một một khoảng tâm linh trong tâm hồn, thế giới tâm linh vẫn là một thực tế, và vẫn là đối tượng của sự miêu tả văn học. Các nhà văn lãng mạn chủ nghĩa và hiện thực chủ nghĩa thuộc giai đoạn 1932 – 1945 vừa có thế giới quan khoa học, vừa có yếu tố văn hóa tâm linh, vẫn miêu tả con người mang tâm linh ấy. Ví dụ như Nguyễn Tuân trong Vang bóng một thời và nhiều bài tùy bút khác. Trong văn học cách mạng thời kháng chiến chống Pháp thì yếu tố tâm linh vẫn đang có vị trí. Nhà thơ Tố Hữu, trong khi tuyên bố: “Trời không có thiên thần, Đất không có thánh nhân, Chỉ có nhân dân thần thánh”, thì trong một số bài thơ miêu tả quần chúng, đã có yếu tố tâm linh. Bà Bủ: “Đêm đêm bà bủ nằm mơ khấn thầm.” Trong bài Sáng tháng Năm có yếu tố tâm linh mới: “Anh chị em ơi có phải, Mỗi khi lòng ta xao xuyến rung rinh, Môi ta thầm kêu Hồ Chí Minh, Và mỗi trận mỗi mùa vui thắng lợi.” “Thầm kêu” ở đây có ý nghĩa như là khấn, cầu và “cái tên yêu Hồ Chí Minh” như một phép mầu khiến cho mỗi trận mỗi mùa vui thắng lợi. Trong truyện ngắn Làng rất nổi tiếng của Kim Lân có chi tiết ông Hai cảm thấy nhục khi có tin đồn cả làng ông theo Tây, ông khóc thầm và nghĩ, Cụ Hồ trên đầu trên cổ sẽ hiểu thấu cho bố con ông. Nhưng sang giai đoạn sau năm 1954 theo nhận xét sơ bộ của tôi, yếu tố tâm linh hầu như không có nữa. Một mặt, chủ nghĩ hiện thực xã hội chủ nghĩa, quan niệm miêu tả đời sống theo quan niệm phản ánh duy vật không cho phép, mặt khác, các hiên tượng tâm linh bị đồng nhất với mê tín dị đoan, dễ “làm sống lại trong đầu óc người đọc bình thường những quan điểm phản khoa học lỗi thời”[2] Trong suốt thời kì này song song với phong trào chống mê tín dị đoan, xây dựng đời sống văn hóa mới, người ta cho phá hoại nhiều đền miếu, đình làng, nhà thờ họ ở các địa phương. Cho đến những năm 80 các hiện tượng tâm linh như ông Chưởng Cần, công trình nghiên cứu của giáo sư Nguyễn Hoàng Phương đều bị cấm đoán, thậm chi không cho phép ông ấy đi nói chuyện tại các cơ quan đơn vị.

Tuy vậy, từ sau 1975, các yếu tố tâm linh ngày càng thâm nhập vào văn học. Đặc biệt từ thời đổi mới sáng tác mang yếu tố tâm linh ngày cang nhiều. Các sáng tác của các nhà văn Nguyễn Huy Thiệp, Hồ Anh Thái, Hòa Vang,  Võ Thị Hảo, Nguyễn Xuân Khánh…ngày càng được bạn đọc yêu chuộng, thích thú. Một mặt, tâm linh là hiện tượng tự nhiên trong đời sống, trong văn học truyền thống, nay dùng làm chất liệu sáng tạo mới, khiến người đọc thích thú. Mặt khác hiện thực được hiểu như là những giấc mơ, huyền thoại của con người, kì  lạ, bất tận, trong đời sống có Chúa, có Phật, cũng có ma có quỷ, và tất nhiên có cả niềm tin cái siêu nhiên. Tâm linh đã trở lại với văn học, không chỉ có tác dụng miêu tả đời sống trong phương thức tồn tại tâm linh, mở rộng khái niệm hiện thực do diễn ngôn tâm linh kiến tạo, góp phần kích thích trí tưởng tượng, thích thú cái kì ảo, mà còn nuôi dưỡng tinh thần con người, đi sâu vào những miền mà khoa học chưa thể giải thích, mà cũng không nhất thiết đều phải giải thích của đời sống. Đồng thời cũng xuất hiện nhiều hiện tượng đối thoại với thế giới quan tâm linh, thần bí. Miêu tả đời sống tâm linh và mê tin là hai chuyện khác nhau.

3. Tâm linh và diễn ngôn/ ngôn ngữ nghệ thuật

Tâm linh là niềm tin vào thế giới bên kia, vào các sức mạnh siêu nhiên chi phối thực tế, hoặc các khả năng biến đổi số phận con người hoặc giải đáp trạng thái nhân sinh hiện hữu. Niềm tin ấy thể hiện trong thế giới quan, được kiến tạo bởi các kí hiệu và diễn ngôn tâm linh. Thế giới ấy có thần , Phật, Chúa Trời, ma, quỷ, Xa tăng, tức là các biểu tượng, các siêu kí hiệu, bên dưới có vô vàn các kí hiệu bậc thấp, các mô hình tự sự, các mô típ, các mẫu gốc lặp đi lặp lại. Ví như, một môtip “Mộng” thì trong văn học đã có biết bao nhiêu mộng. Đầu tiên là báo mộng, Thần nhân qua mộng báo tin cho người, nhưng trong các truyện ở Việt điện u linh. Sau là mộng sang thế giới khác, như mộng đế vương, mộng quốc sự, mộng làm tình, mộng sinh thực (mộng đầu thai hoặc tái sinh), mộng hôn nhân, mộng chết, mộng sinh, mộng gặp hạn, mộng quan chức, mộng đỗ đạt, mộng gặp thần nhân, gặp tiên, mộng thấy ma quỷ, mộng gặp oan hồn, mộng hóa thân như Trang Chu mộng bướm, mộng du lịch như Lí Bạch “Mộng du Thiên Mụ ngâm lưu biệt”, mộng Hầu Trời như Tản Đà, mộng xuống địa ngục, mộng kiện, xử kiện nơi địa phủ của Diêm Vương… Một chữ mông mà sinh ra không biết bao nhiêu truyện. Mộng là chiếc cầu nối thế giới này với thế giới “bên kia”. Mộng  là siêu thoát khỏi đời thực. Mộng là tình huống triết lí giúp ngộ ra bản chất cuộc đời. Trong tập thơ văn xuôi Cỏ dại của Lỗ Tấn cả chục lần ông nằm mơ, mở ra một thế giới biểu tượng hư huyễn nhưng lại cho thấy những suy tư triết lí và ước mơ thầm kín sâu thẳm. Trang Chu mộng bướm là câu chuyện triết lí. Có mộng thì có tỉnh mộng. Tỉnh mộng lại cũng là một môtip văn học. Tỉnh mộng là trở về thực tại, suy tư về thực tại, có cội nguồn từ Phật giáo. Phật giáo là một tôn giáo thế tục, được đại chúng tiếp nhận. Bất cứ ai, hễ có tâm hướng thiện, đều có thể đạt tới chính quả, lập tức thành Phật. Phật là người thức tỉnh, nhìn lại thấy đời chỉ là bể khổ, là giấc mộng sắc sắc không không. Tu tiên, lên tiên, gặp tiên là môtip kéo dài của mộng, thể hiện khát vọng trường sinh bất lão, bất tử và tự do hưởng thụ của con người. Nhưng người tiên mulên tiên rồi thất vọng trở về. Mộng/Thật, Mộng/Tỉnh, Tiên/Phàm là những cặp kí hiệu đối lập để con người tư duy về cuộc đời. Đằng sau chúng là cặp nghĩa Thật/Giả, Vĩnh cữu/Tạm bợ, Nhầm lẫn/Giác ngộ. Môtip “hóa” như người hóa đá, hóa thú, hóa chim, hóa cây, hóa vật và ngược lại, vật hóa người, thú hóa người, hóa ma. Trong thế giới mọi vật có thể chuyển hóa, không có ranh giới cố định. Cái ngôn ngữ “hóa” này có thể biểu hiện biết bao chuyển hóa trong cuộc đời thực mà bề ngoài khó thấy. Hóa/Thường là cặp đối lập cho ta thấy cái bên ngoài và bên trong, các khả năng biến hóa vô tận. Các kiểu truyện như cao tăng và mĩ nữ (Tây du kí, truyện nàng Điểm Bích…), kiểu truyện nhân quả báo ứng, như Truyện Kiều, Bút máu…), kiểu truyện tiên bị đày xuống hạ giới (như Hồng Lâu mộng, …), kiểu truyện người ngộ đạo thành tiên, kiểu truyện cứu thế hàng yêu, kiểu truyện tình yêu giữa người và yêu quái, kiểu truyện sinh hạ diệu kì hoặc tướng mạo kì dị, kiểu truyện hiến tế người đẹp cho yêu quái để được bình yên… đều thể hiện niềm tin tâm linh và cách cấu tạo diễn ngôn tâm linh. Mối quan hệ đan xen, phối hợp của chúng tạo ra vô vàn biến thể của các truyện tùy thuộc vào ngữ cảnh cụ thể.

Trong Truyện Kiều, có môtip thiên nhân cảm ứng (Lòng hiếu bán mình chuộc cha của Kiều đã động đến trời, tự tử có người cứu), nhân quả báo ứng (Bọn Tú Bà, Mã Giám sinh, Sở Khanh, Ưng Khuyển đều bị ác báo), các nhân vật đưa tin của thế giới bên kia (Đạm Tiên, Tam Hợp đạo cô, Vải Giác Duyên, khi hoàn thành sứ mệnh đưa tin họ tự biến mất). Có thể nói, tâm linh là thế giới mở rộng, nhân đôi theo các khả năng tín ngưỡng và kì ảo.

4. Tâm linh như một diễn ngôn quyền lựctrong văn học

Văn học hiện đại cũng không thể rời bỏ bản thể con người tâm linh. Trong tiểu thuyết mang tính luận đề Cõi người rung chuông tận thế, nhà văn Hồ Anh Thái đã nêu những nhận xét thú vị. nhân vật nữ trong truyện “cho đến khi chuyển từ thân phận vô sản sang thân phận người có sở hữu, lúc nào cũng lo mất của, sợ hao hụt. Lo nhiều đâm ra mê tín, thôi thì vái cả bốn phương tám hướng, có thờ có thiêng, có kiêng có lành.” Khi đang là vô sản, chưa có của nả gì, người ta có thể không tin thần phật, đập phá lăng, đình không ghê tay, nhưng khi đã có chút tài sản như cái khách sạn, thì người ta bắt đầu tin bói toán, tin tử vi, thờ thần tài. Cũng vậy, người có chức càng to thì càng tin tâm linh, chuyên cần cúng lễ. Có những tên kẻ cướp trước khi đi phạm tội cũng thành tâm lên chùa  xin được phù hộ. Mặt khác, giữa người sống và người chết có nhiều mối ràng buộc vô hình. Sự báo mộng, ngoại cảm, nhập hồn giúp Mai Trừng tìm được hài cốt bố mẹ giữa Trường Sơn. Tâm linh là một phương thức tồn tại của con người, nhưng không phải là duy nhất. Chỉ một chiều tâm linh sẽ đưa ta xã rời thực tại. Cuộc đời vẫn rất vật chất. Nhân vật xưng “tôi” trong truyện nếu không tập võ từ trước, hẵn đã chết vì mũi dao của kẻ thủ ác. Một tiểu thuyết chương nào cũng có cái chết. Nhà văn  cảnh báo lối sống hận thù kéo theo một chuỗi hận thù, cái chết đòi trả bằng cái chết, sẽ đưa cõi người đến ngày tận thế, và khuyên theo lời Phật dạy hãy giác ngộ, từ bỏ hận thù, bạo lực. Một tư tưởng có vẻ như cũ nhưng không hề cũ. Văn học không nhất thiết phải tìm những tư tưởng gì xa xôi, văn học có thể chỉ đào xới những tư tưởng sâu sắc đã có lâu đời.

Văn học hiện đại có cách tiếp cận tâm linh theo hướng khác. Đỗ Minh Tuấn trong Thần thánh và bươm bướm  đã chế nhạo các tâm linh, ngoại cảm và hũ tục, bóc trần các thứ giả tâm linh trục lợi.

Tâm linh trong văn học hiện đại là một ngôn ngữ nghệ thuật. Chủ nghĩa hiện thực huyền ảo chính là sự khai thác truyền thống tâm linh của dân tộc. Đó là con đường đã đưa G. Marquez đến thành công, cũng là con đường đưa Mạc Ngôn đến thành công, và ở Việt Nam cũng đã đưa nguyễn Huy Thiệp, Hồ Anh Thái, Nguyễn Xuân Khánh, Võ Thị Hảo đến thành công. Tâm linh là một  diễn ngôn quyền lực, nhân danh sự huyền bí nhiệm mầu để nói những lời nguyền, lời sám hối, lời cầu khấn, lời lên án các hiện tượng xấu xa, bạc ác trong hiện thực mà con người chưa có điều kiện trừ khử.



[1]  Trần Đình Hượu. Thực tại, cái thực, và vấn đề chủ nghĩa hiện thực trong văn học Việt Nam trung cận đại, trong sách Văn học và hiện thực, nxb. KHXH, Hà Nội, 1990, tr. 25.
[2] Trần Thanh Mại. Những câu chuyện thần linh ma quái (Nhân đọc Việt điện u linh và Lĩnh Nam chích quái). Tạp chí Nghiên cứu văn học, số 2 – 1961,


Thứ Năm, 13 tháng 3, 2014

Lời kêu gọi ủng hộ chương trình 
“NGHĨA TÌNH HOÀNG SA, TRƯỜNG SA"  
(LĐ) - Số 53 

Đồng chí Đặng Ngọc Tùng - Ủy viên Ban chấp hành Trung ương Đảng, Chủ tịch Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam - kêu gọi ủng hộ chương trình “Nghĩa tình Hoàng Sa, Trường Sa”.

Ngày 14.3.1988, Trung Quốc đánh chiếm đảo Gạc Ma thuộc quần đảo Trường Sa của Việt Nam. Trong cuộc chiến không cân sức, 64 cán bộ, chiến sĩ Quân đội Nhân dân Việt Nam đã chiến đấu đến giọt máu cuối cùng và anh dũng hy sinh.

40 năm trước, ngày 19.1.1974, Trung Quốc dùng vũ lực cưỡng chiếm quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam. 74 sĩ quan, thủy thủ quân lực Việt Nam Cộng hòa đã kiên cường chiến đấu bảo vệ đảo và hy sinh, vĩnh viễn nằm lại ở vùng biển Hoàng Sa.

Máu của những người con đất Việt dù trong các hoàn cảnh lịch sử khác nhau đã đổ xuống để bảo vệ sự toàn vẹn lãnh thổ của tổ quốc Việt Nam yêu dấu. Ghi nhận công ơn to lớn đó, chia sẻ nỗi đau của những người mẹ, người vợ, người con có người thân đã hy sinh bảo vệ Hoàng Sa (1974) và Trường Sa (1988) là việc làm rất cần thiết của cả cộng đồng và xã hội.

Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam phát động chương trình “Nghĩa tình Hoàng Sa, Trường Sa” để tri ân các chiến sĩ đã ngã xuống vì Hoàng Sa, Trường Sa, để lịch sử không quên, tôn vinh những người con đất Việt đã anh dũng hy sinh bảo vệ tổ quốc và thể hiện tinh thần đại đoàn kết dân tộc.

Chương trình sẽ vận động các cá nhân, tổ chức trong và ngoài nước ủng hộ các nguồn lực để xây dựng đền tưởng niệm 64 chiến sĩ Hải quân nhân dân Việt Nam anh dũng hy sinh trong trận Gạc Ma (huyện đảo Trường Sa, thuộc tỉnh Khánh Hòa) và hỗ trợ cha, mẹ, vợ, con, thân nhân của những người lính đã hy sinh trong hai trận chiến Hoàng Sa (1974) và Trường Sa (1988) đang gặp khó khăn.

_______________________

Trung Quốc đầu tư nghìn tỷ vào Nam Định, thêm lo?


(Doanh nghiệp) - Trung Quốc đầu tư 1.400 tỷ đồng xây dựng nhà máy sản xuất sợi, dệt tại Nam Định và không ngừng đầu tư vào các lĩnh vực kinh tế khác.


TTXVN đưa tin, Ủy ban Nhân dân tỉnh Nam Định vừa cấp giấy chứng nhận đầu tư cho Công ty TNHH Tập đoàn Dệt may YULUN Giang Tô (Trung Quốc) xây dựng nhà máy sản xuất sợi, dệt, nhuộm với tổng vốn đầu tư 68 triệu USD (tương đương hơn 1.400 tỷ đồng) tại khu công nghiệp Bảo Minh (huyện Vụ Bản).

Ông Nguyễn Việt Thắng, Trưởng Phòng Quản lý Đầu tư Quy hoạch - Ban Quản lý các khu công nghiệp tỉnh Nam Định cho biết, theo giấy chứng nhận đầu tư, Công ty TNHH Tập đoàn Dệt may YULUN Giang Tô (có trụ sở tại thành phố Tĩnh Giang, tỉnh Giang Tô, Trung Quốc) sẽ triển khai xây dựng nhà máy trên diện tích 80.000m2 tại khu công nghiệp Bảo Minh, với công suất sản xuất sợi 9.816 tấn/năm; dệt 21,6 triệu mét/năm; nhuộm 24 triệu mét/năm.

Dự án có tiến độ thực hiện từ nay đến tháng 6/2016, thời hạn sử dụng đất 46 năm kể từ ngày cấp giấy chứng nhận đầu tư.
Doanh nghiệp dệt may Trung Quốc sẽ gia tăng đầu tư vào Việt Nam.
Doanh nghiệp dệt may Trung Quốc sẽ gia tăng đầu tư vào Việt Nam.

Cũng theo ông Thắng, một nhà đầu tư của Hong Kong (Trung Quốc) cũng đang quan tâm dự án xây dựng một khu công nghiệp dệt may với quy mô khoảng 1.000 ha tại huyện Nghĩa Hưng. Ủy ban Nhân dân tỉnh Nam Định hiện đang xem xét và sẽ trình Chính phủ về dự án này.

Trước đó nhiều chuyên gia đã đưa ra dự báo về việc doanh nghiệp dệt may Trung Quốc sẽ gia tăng đầu tư vào Việt Nam. 

Cụ thể, trên TBKTSG vị đại diện Vinatex cho biết lý do là doanh nghiệp Trung Quốc rất nhanh nhạy trong việc tìm kiếm cơ hội đầu tư, đặc biệt khi thuế suất xuất khẩu may mặc của Việt Nam được đưa xuống 0% khi vào Mỹ - thị trường lớn nhất của Việt Nam trong các nước tham gia Hiệp định Đối tác kinh tế chiến lược xuyên Thái Bình Dương (TPP).

Ông này dự đoán, làn sóng đầu tư từ Trung Quốc sẽ tập trung chủ yếu vào ngành may mặc, ngành dệt nhuộm cũng sẽ có nhưng sẽ không nhiều. Vì vậy việc này sẽ khiến doanh nghiệp Việt Nam khó khăn hơn trong cạnh tranh khi có hiệp định TPP.

Trong khi đó, hiện sức cạnh tranh của doanh nghiệp may mặc Việt Nam rất yếu, vì chủ yếu vẫn là gia công và phụ thuộc vào nguyên liệu nhập khẩu từ Trung Quốc.

Trung Quốc đầu tư mạnh, lộ ý đồ kiểm soát thị trường?

Trước thực tế, Trung Quốc đang mở rộng đầu tư vào Việt Nam, không chỉ lĩnh vực may mặc, TS Alan Phan từng lý giải điều này là do Trung Quốc đang tìm con đường để đầu tư do kinh tế Trung Quốc được dự báo là không có gì khả quan so với năm ngoái. 

"Họ có sẵn tiền để đầu tư ra nước ngoài và Việt Nam là nước láng giềng kế bên cũng giống như Việt Nam khi có sẵn tiền sẽ mang sang các nước như Lào, Campuchia, Myanmar để đầu tư. Tức là đầu tư ở nước gần trước", TS Alan Phan nói.

TS Lê Đăng Doanh cũng giải thích lý do việc doanh nghiệp Trung Quốc tham gia mua cổ phần của các doanh nghiệp trong nước ngày càng nhiều vì nhiều doanh nghiệp đang lâm vào tình trạng khó khăn về mặt tài chính, để cải thiện tình hình đó một số doanh nghiệp tìm cách đa dạng hóa sở hữu, bán một phần vốn cho doanh nghiệp nước ngoài.

Tuy nhiên, TS Lê Đăng Doanh lo ngại, sau một thời gian công ty sẽ biến thành công ty Trung Quốc, không còn là công ty Việt Nam nếu như họ mua được nhiều cổ phần và chiếm đa số ghế trong hội đồng quản trị.

"Đây là điều đáng chú ý vì chúng ta là nước láng giềng với Trung Quốc nếu để công ty Trung Quốc thao túng rất có thể thành công cụ cho một chính sách để gây ảnh hưởng hoặc kiểm soát thị trường ở nước ta”, TS Lê Đăng Doanh nói.

Không chỉ sự xuất hiện ngày càng nhiều doanh nghiệp Trung Quốc tham gia vào nền kinh tế Việt Nam, hiện các doanh nghiệp nước ngoài khác cũng tham gia ngày càng sâu vào nền kinh tế. 

Chuyên gia kinh tế Phạm Chi Lan phát biểu tại hội thảo "Triển vọng kinh tế và tầm nhìn chính sách năm 2014" mới đây, cũng đặt vấn đề về hoạt động của doanh nghiệp FDI có thể có lợi trước mắt nhưng về lâu dài Việt Nam lại đang đẩy kinh tế vào tay các nhà đầu tư nước ngoài. 

Bà Phạm Chi Lan phân tích, nếu  lĩnh vực bất động sản cũng mong người nước ngoài được tự do mua bán bất động sản Việt Nam thì có lẽ 5-10 năm tới Việt Nam sẽ là nước sẽ là của những họ Kim, họ Lee của Hàn Quốc, họ Tập, họ Đặng của Trung Quốc chứ không phải của người Việt Nam và chúng ta sẽ lại là những người làm thuê, làm thuê ở dạng gia công. Thậm chí thay vì mua nhà bằng gói 30.000 tỷ không được thì lại đi thuê nhà của nhà đầu tư nước ngoài.

"Lần này tôi cảm thấy rủi ro hơn rất nhiều khi ở Hà Tĩnh thời gian vừa qua, mức độ có mặt của người Trung Quốc nhiều đến mức có thể cắt Việt Nam làm đôi thì những thách thức không chỉ vấn đề kinh tế, xã hội", bà Lan nói.

Thu Phương

Chủ Nhật, 2 tháng 3, 2014

Trung Quốc đang có âm mưu gì ở Hà Tĩnh và Quảng Trị?

Trung Quốc đang có âm mưu gì ở Hà Tĩnh và Quảng Trị?

Nguyễn Hữu Quý

1. Đâu chỉ là tài nguyên, khoáng sản

Việc Trung Quốc trúng thầu và thâu tóm hơn 90% các công trình trọng điểm quốc gia trải dài khắp mọi miền đất nước Việt Nam thì ai cũng biết. Mới đây, khoảng giữa tháng 1/2014, các báo của Nhà nước còn cho biết, 60% doanh nghiệp phía Bắc có người Trung Quốc đứng sau lưng.
Lâu nay, người ta hay dùng danh từ “xâm lược” để chỉ về một cuộc chiến tranh quân sự, do nước A thực ahiện đối với nước B, thì hôm nay, cần được nghĩ khác. Theo tư duy này, ta có thể khẳng định: Trung Quốc đã và đang xâm lược Việt Nam một cách toàn diện. Theo đó, không chỉ hàng ngày, hàng giờ, họ đang gặm nhấm, lấn dần từng tấc đất nơi biên giới (mặc dù giữa hai nước đã cắm mốc), tấc biển ngoài khơi xa, mà họ còn xâm lược rất thành công về kinh tế, chính trị, và đặc biệt là về ngoại giao… Việc Việt Nam không chính thức kỷ niệm 40 năm Trung Quốc cưỡng chiếm Hoàng Sa (19/01/1974-19/01/2014), 35 năm ngày Trung Quốc xâm lược Việt Nam (17/02/1979-17/02/2014) cho thấy, cuộc xâm lược của Trung Quốc đối với Việt Nam đã và đang hết sức thành công, không hề tốn một viên đạn mà thực hiện được mục tiêu một cách, ngoạn mục, mỹ mãn…

Câu hỏi được đặt ra ở bài này là: tại sao Bắc Kinh lại “ưu tiên” để cắm chốt ở Hà Tĩnh và Quảng Trị?
a. Đối với cảng Cửa Việt, Quảng Trị

Ngày 14/02/2014, đài VOA, trong bài viết có tựa đề “Báo động: Người Trung Quốc lại sắp lập căn cứ ở Quảng Trị”, tác giả là Blogger Lê Anh Hùng, cho biết:
“Công ty Cổ phần Chăn nuôi C.P. Việt Nam (một công ty sản xuất thức ăn gia súc, thuỷ sản và chăn nuôi hàng đầu Việt Nam, trước đây thuộc tập đoàn C.P. Group của Thái Lan, nhưng đã bị Trung Quốc thâu tóm kể từ năm 2011) sắp được giao 96,1ha đất, kéo dài hơn 2km dọc theo bờ biển và chỉ cách cảng Cửa Việt chưa đầy 1km”(1).
Cũng trong bài viết này, về vị trí chiến lược và sự nhạy cảm của cảng Cửa Việt, tác giả dẫn lời nhà văn Xuân Đức, một người con của tỉnh Quảng Trị, đã viết về thời kỳ chống Mỹ như sau: “… cuộc chiến trên cảng Cửa Việt và sông Cửa Việt nói riêng đã trở thành quyết chiến điểm khốc liệt nhất có ý nghĩa quyết định sự thành bại của cả chiến trường Miền Nam”.

b. Đối với cảng Vũng Áng, huyện Kỳ Anh, Hà Tĩnh

Tháng 4/2006, Khu Kinh tế Vũng Áng được thành lập, theo Wikipedia có diện tích tự nhiên 227,81 km2 (22.781 ha). Các hoạt động kinh tế được ưu tiên phát triển tại khu kinh tế Vũng Áng bao gồm: dịch vụ cảng biển, công nghiệp luyện kim gắn với lợi thế về tài nguyên và nguồn nguyên liệu (mỏ sắt Thạch Khê, mỏ titan,...).
Đáng chú ý là, Khu Kinh tế Vũng Áng đang được đầu tư Dự án nhà máy gang thép Formosa Hà Tĩnh (2) là một trong những dự án trọng điểm và lớn nhất của Tập đoàn Formosa (tiền thân là của Đài Loan, nhưng đã nhượng lại 100% cổ phần cho Trung Quốc?!) với tổng mức đầu tư 15 tỷ USD (gồm hai giai đoạn), nằm trên diện tích trên 3.300ha, trong đó diện tích đất liền là hơn 2.000 ha và diện tích mặt nước trên 1.200 ha.
Với quy mô lớn như vậy, thì người Trung Quốc có thể ăn nằm tại khu vực này khoảng 25 đến 30 năm, vừa để đầu tư xây dựng công trình vừa để khai thác vận hành nhà máy, vậy là đủ để một thế hệ người Tàu lấy vợ, lập thành phố người Tàu tại khu vực Kỳ Anh, Hà Tĩnh; sâu xa hơn, có thể là lực lượng địa phương sau này trong mưu đồ chia cắt Việt Nam thành hai miền.
Tháng 10/2013, đài RFA, đăng bài “Một Hà Tĩnh đầy ắp người Trung Quốc”, báo động tình trạng cát cứ của người Trung Quốc tại Vũng Áng, mà hậu quả về an ninh xã hội tại nơi này qua ý kiến của một người dân được bài báo trích đăng là:
“… Bây giờ, phần đông gia đình đã bán hết đất cho người Tàu, đất thì không còn nữa mà con cái thì nghiện ngập, hư hỏng, như vậy, chỗ an thân cũng không còn mà niềm hy vọng vào tương lai cũng bị đứt gãy. Điều này phải xem lại âm mưu của người Trung Quốc”.
Và đây là nhận định tổng quát của bài báo, khi tác giả nghe từ một phụ nữ:
“Có thể nói rằng có đến 70% thanh niên hư hỏng, nghiện nập. Và bà tỏ ra hoài nghi sự có mặt của những người Trung Quốc. Bà nghĩ rằng họ đến Kỳ Anh mua đất làm ăn không đơn thuần, họ có ý đồ không tốt và họ rất nguy hiểm”.
Nhưng đáng chú ý nhất, báo động đỏ cho tình hình tại Vũng Áng, phải là một comment (của một người địa phương nơi đây) trong bài: “Nhà văn Phạm Xuân Nguyên: Cuộc chiến tranh biên giới Việt-Trung là một sự thật lịch sử không thể xóa bỏ”, đăng trên Blog Dân Quyền (Diễn đàn XHDS) hôm 14/02/2014, toàn văn như sau:
“Cảm ơn nhà văn Phạm Xuân Nguyên đã nói lên những suy nghĩ của tôi và bạn bè tôi – những người đã chiến đấu có người đã anh dũng hy sinh, có người bị thương…. trong cuộc chiến chống Tàu cướp nước 2/1979, tại Bắc luân (Quảng ninh), ở Trung đoàn 288-Quân khu 3.
Tôi cũng rất đau lòng khi vùng đất quê Kỳ Anh (Hà Tĩnh) của anh Nguyên và chúng tôi đã được cầm quyền ĐCSVN bán cho Trung Quốc hơn 80 km2 thành khu căn cứ riêng mà chỉ có chức sắc Tỉnh ủy Hà Tĩnh và Đảng TƯ mới có thể được Tàu cho vào, còn chủ tịch tỉnh lấy chức danh đó cũng không được vào [? – NHQ]. Trung Quốc xây tường và nhà cao tầng dọc đường quốc lộ 1 từ Kỳ Anh đến Cẩm Xuyên hơn 20 km, chiếm hoàn toàn biển phía Đông đường Quốc lộ 1, để làm gì cũng không ai được biết.
Dân Kỳ Anh (Hà Tĩnh) mất đất, không việc làm. Trai thì cờ bạc, đề đóm, chích choác ma túy. Gái thanh niên, trung niên cặp nón, ô… môi son, má phấn, mắt xanh mỏ đỏ vẫy, gọi khách đi xe bắc Nam, công khai làm điếm vì không có việc làm, đất ở, đất ruộng, cả mồ mả cha ông… nay ĐCSVN BÁN CHO TÀU rồi . Trai Tàu lấy vợ Kỳ Anh, là mơ ước của gái Kỳ Anh ngày nay, vì đi làm điếm còn khổ hơn. Người Trung Quốc ở Kỳ Anh không cần theo luật CHXHCNVN là đi xe máy họ không cần đội mũ, mà công an còn cười chào thân thiện. Người Kỳ Anh mà đi xe máy không đội mũ thì chỉ có đi theo ông Trịnh Xuân Tùng - Hà Nội” (4).
Rõ ràng, Trung Quốc đang thực hiện cuộc di dân rất âm thầm, nhưng quyết liệt và hiệu quả vào lãnh thổ Việt Nam một cách hợp pháp, có sự tiếp tay của quan chức Việt Nam ở cấp cao, thông qua chính sách đầu tư xây dựng và khai khoáng.
Vũng Áng quả là một vị trí lý tưởng không chỉ để khống chế Việt Nam về mặt đường bộ, mà toàn bộ đường biển đi vào Vịnh Bắc Bộ. Một nguy cơ không thể không được báo động!

2. Tam giác căn cứ quân sự Du Lâm - Vũng Áng - Cửa Việt

clip_image002


Nếu không có sự kiểm soát chặt chẽ, thì rất có thể thông qua tam giác căn cứ quân sự Du Lâm - Vũng Áng - Cửa Việt, Trung Quốc dễ dàng chia cắt Việt Nam cả về đường biển và đường bộ, thậm chí chia Việt Nam thành hai miền.
Căn cứ hải quân Du Lâm(5) của Trung Quốc, được Bách khoa toàn thư Wikipedia giới thiệu: là căn cứ tàu ngầm, nằm ở thành phố Tam Á, ở cực Nam trên đảo Hải Nam, “là một mối lo an ninh cho các nước ASEAN cũng như Ấn Độ”. Theo bản đồ (kèm theo), từ Du Lâm đến Vũng Áng và Cửa Việt của Việt Nam, có chiều dài đường chim bay khoảng 320-350 km, trong khi khoảng cách giữa Vũng Áng đến Cửa Việt theo QL1A là 190 km. Ba đỉnh này tạo thành một tam giác, và với lực lượng hùng mạnh về tàu ngầm và tàu chiến mặt nước, Trung Quốc rất dễ dàng chia cắt hai miền của Việt Nam ở khu vực Vũng Áng và tỉnh Quảng Bình. Kể cả đường bộ và đường biển.
Phải chăng việc cấm người Việt Nam ra, vào Vũng Áng và Cửa Việt, bộc lộ ý đồ Trung Quốc muốn xây dựng hai vị trí này thành căn cứ quân sự bí mật của họ, phục vụ cho việc chia cắt Việt Nam bằng lực lượng hải quân khi chiến sự xảy ra. Đây chính là đáp án trả lời cho câu hỏi: tại sao Bắc Kinh lại “ưu tiên” để cắm chốt ở Hà Tĩnh và Quảng Trị.
(Nên nhớ, Quảng Bình, nơi nằm giữa Vũng Áng và Cửa Việt, là vùng đất hẹp nhất trên dải đất hình chữ S của Việt Nam, bề rộng chỉ hơn 40 km tính từ bờ biển đến biên giới Việt-Lào).

3. Vũng Áng - Cửa Việt và việc thực hiện “đường lưỡi bò”

clip_image003
“Đường lưỡi bò” (màu đỏ) và luồng vận chuyển hàng hải quốc tế (màu trắng)

Ta dễ dàng nhận thấy, phần lớn chiều dài về phía Nam của “đường lưỡi bò” nằm trên lãnh hải chủ quyền của Việt Nam và Philippines; trong khi, do khu vực Quần đảo Trường Sa gồm nhiều đảo nhỏ, biển nông, luồng tàu hẹp… cho nên, theo bản đồ trên đây, ta thấy luồng vận chuyển của các tàu viễn dương quốc tế chỉ đi trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam (đường màu trắng mờ).
Liệu Trung Quốc có thể khống chế diện tích theo “đường lưỡi bò” mà họ đã tuyên bố hay chăng? Tất nhiên, chỉ với điều kiện Trung Quốc khống chế được Việt Nam. Xin dẫn một đoạn về tham vọng của Mao Trạch Đông: “Chủ tịch Mao Trạch Đông (còn) khẳng định trong cuộc họp của Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc, tháng 8 năm 1965: “Chúng ta phải giành cho được Đông Nam châu Á, bao gồm cả miền nam Việt Nam, Thái Lan, Miến Điện, Malayxia và Singapo… Một vùng như Đông Nam châu Á rất giàu, ở đấy có nhiều khoáng sản… xứng đáng với sự tốn kém cần thiết để chiếm lấy… Sau khi giành được Đông Nam châu Á, chúng ta có thể tăng cường được sức mạnh của chúng ta ở vùng này, lúc đó chúng ta sẽ có sức mạnh đương đầu với khối Liên Xô-Đông Âu, gió Đông sẽ thổi bạt gió Tây…”. (Sự thật về quan hệ Việt Nam - Trung Quốc trong 30 năm qua, NXB Sự Thật, 1979).
Như vậy, tham vọng chia cắt Việt Nam một lần nữa như đã nói trên, không phải là không có căn cứ, với bọn Bá quyền Đại Hán Bắc Kinh, thì mọi việc đều có thể.

4. Vài lời kết

1. Không ngẫu nhiên mà Trung Quốc thực hiện đầu tư lớn vào hai vị trí Vũng Áng, Kỳ Anh, Hà Tĩnh và cảng Cửa Việt, tỉnh Quảng Trị. Thời gian đầu tư dài, trên một dải đất hẹp nhất của Việt Nam, đủ điều kiện để Trung Quốc thay người Việt ở hai địa phương này bằng người Tàu. Rất có thể có nguy cơ đến một thời điểm thích hợp (sau 15-25 năm), Trung Quốc sẽ phát động chiến tranh và chia đôi Việt Nam một lần nữa để mưu chiếm toàn bộ Biển Đông.

2. Nếu vẫn tiếp tục để Trung Quốc lộng hành và không kiểm soát được họ tại hai địa điểm nói trên thì đó là sai lầm mang tính lịch sử. Nhân dịp 35 năm ngày xảy ra chiến tranh Trung Quốc xâm lược Việt Nam (17/02/1979-17/02/2014), việc để Trung Quốc bất ngờ phát động và xâm lược trên toàn cõi biên giới phía Bắc đêm 16 rạng sáng ngày 17/02/1979, mà phía Việt Nam không hề hay biết, là bài học cảnh giác, nếu như còn muốn Việt Nam tồn tại như một quốc gia độc lập, mà không muốn bị chia cắt một lần nữa hoặc tự biến thành một tỉnh của Trung Quốc.

Ngày 15 và 16/02/2014
N.H.Q.
-------------------

Ghi chú:
(1) Báo động: Người Trung Quốc lại sắp lập căn cứ ở Quảng Trị
(2) Khởi Công xây dựng Nhà máy gang thép Formosa Hà Tĩnh
(3) Một Hà Tĩnh đầy ắp người Trung Quốc
(4) Nhà văn Phạm Xuân Nguyên: Cuộc chiến tranh biên giới Việt-Trung là một sự thật lịch sử không thể xóa bỏ
(5) Căn cứ hải quân Du Lâm
Tác giả gửi trực tiếp cho BVN.

Thứ Bảy, 1 tháng 3, 2014

Valentine - Nguồn gốc, ý nghĩa và những biểu tượng tuyệt vời

Không chỉ có một ngày lễ Valentine trong năm
Valentine Đỏ (14/2) - Ngày của những đôi tình nhân
Valentine Đỏ là ngày lễ tình nhân truyền thống, ngày mà tất cả những người yêu nhau trên thế giới mong chờ - 14/2.
Valentine Đỏ là dịp để những người yêu nhau bày tỏ tình cảm của mình với nửa còn lại. Vào ngày này, người ta tặng nhau chocolate, hoa hồng đỏ cùng những tấm thiệp chan chứa yêu thương…
Valentine Trắng (14/3) - Ngày để các bạn trai đáp lại tình cảm của bạn gái
Vì tình yêu luôn mới mẻ mỗi ngày, người ta dường như yêu nhau nhiều hơn sau những giấc mơ dịu dàng, nên một ngày Valentine dường như là không đủ. Bởi vậy, từ đất nước mặt trời mọc, một ngày lễ Tình nhân nữa ra đời (Valentine Trắng) và nhanh chóng được các bạn thanh niên đón nhận.
Valentine Trắng còn được biết đến với những cái tên như White Valentine, White day. Đây là cơ hội tuyệt vời để những người yêu nhau được ở bên nhau. White day diễn ra sau Valentine đúng một tháng, vào ngày 14/3, là dịp để những bạn nam đáp lễ các bạn nữ.
Valentine Trắng là ngày mà phe kẹp nơ rất yêu. Những món quà từ đối phương có thể là chocolate đen hoặc trắng, trang sức hay ấn tượng hơn là... đồ chíp trắng tinh.
Valentine Đen (14/4) - Ngày dành cho những người cô đơn
Valetine Đen có nguồn gốc từ Hàn Quốc. Đây được coi là ngày để những người cô đơn tụ họp với nhau trong một ngôi nhà nào đấy, họ ăn vận đồ đen, cùng nhau ăn món mì Jachang truyền thống (món mì với nước sốt đậu đen) và chia sẻ với nhau sự thiếu may mắn trong tình cảm.


Nguồn gốc về ngày lễ tình nhân – Valentine
Có rất nhiều thông tin về nguồn gốc ngày lễ Valentine, giả thuyết được nhiều người chấp nhận nhất là:
Valentine là một linh mục dưới thời Hoàng đế La Mã Claudius II. Lúc bấy giờ là thế kỷ thứ 3, Đế quốc La Mã phải tham gia nhiều cuộc chiến tranh đẫm máu và không được dân ủng hộ.
Do gặp phải khó khăn khi kêu gọi các chàng trai trẻ gia nhập vào quân đội, Claudius II cho rằng nguyên nhân chính là đàn ông La Mã không muốn rời xa gia đình hay người yêu của họ và hôn nhân chỉ làm người đàn ông yếu mềm; do đó, Claudius II ra lệnh cấm tổ chức các đám cưới hoặc lễ đính hôn để tập trung cho các cuộc chiến.
Linh mục Valentine ở thành La Mã, cùng Thánh Marius đã chống lại sắc lệnh của vị hoàng đế hùng mạnh và tiếp tục cử hành lễ cưới cho các đôi vợ chồng trẻ trong bí mật. Khi bị phát hiện, linh mục Valentine đã bị bắt và kết án tử hình bằng hình thức kéo lê và bị ném đá cho đến chết.
Buổi chiều trước khi ra pháp trường, ông gửi tấm "thiệp Valentine" đầu tiên cho cô con gái của viên cai tù Asterius, người thiếu nữ mù lòa bẩm sinh đã được ông chữa lành bằng phép lạ trước đó, và ký tên "dal vostro Valentino" - from your Valentine ("Từ Valentine của con"). Cho đến nay, các cặp tình nhân vẫn có truyền thống ký tên bằng cụm từ "From your Valentine" của ngày xưa thay vì tên mình trong các tấm thiệp Valentine.
Dần dần, ngày 14 tháng hai hàng năm đã trở thành ngày trao đổi các bức thông điệp của tình yêu và Thánh Valentine đã trở thành vị Thánh bổn mạng của những lứa đôi. Người ta kỷ niệm ngày này bằng cách gửi cho nhau những bài thơ và tặng cho nhau những món quà truyền thống là hoa hồng và socola.
Ngày lễ tình nhân tại các quốc gia
Theo U.S. Greeting Card Association Mỹ, mỗi năm có hơn 1 tỷ thiệp Valentine được trao tay trong ngày lễ này trên thế giới, chỉ xếp hạng sau ngày Lễ Giáng Sinh. Tổ chức này ước lượng khoảng 85% khách hàng mua thiệp Valentine là phụ nữ.
Tại các trường tiểu học tại Bắc Mỹ, các giáo viên thường cho các em học sinh tự làm thủ công thiệp Valentine cho bạn bè trong lớp, các tấm thiệp đơn sơ do các em tự cắt vẽ và tô màu này phản ảnh những điều mà các em cảm kích về mỗi người bạn khác phái của mình trong lớp học.
Người Anh và Pháp đã tổ chức lễ này từ thời Trung cổ, nhưng đến thế kỷ 17, tập tục tặng thiệp làm bằng tay cho người yêu mới phổ biến. Hình ảnh thường thấy là hình trái tim, hoa hồng, mũi tên và vị thần tình yêu Cupid.
Tại Nhật Bản, nhiều nữ nhân viên có bổn phận phải tặng chocolate, bánh kẹo, hoa quả cho các nam đồng nghiệp. Tục lệ này mang tên giri-choko; giri có nghĩa là "bổn phận", choko là chocolate. Đúng một tháng sau đó, trong ngày 14 tháng 3, tức ngày White Day, phía nam có bổn phận phải tặng quà lại cho các nữ đồng nghiệp đã chiếu cố đến mình trong ngày Valentine, những món quà này thông thường phải mang màu trắng.
Tại Iran, Ả Rập Saudi, Malaysia và một số quốc gia theo Hồi giáo, cấm tổ chức các hoạt động kỷ niệm, mừng và bán những món quà ngày lễ tình nhân, kể cả hoa hồng đỏ vì họ cho rằng ngày Valentine là khuyến khích các quan hệ ngoài hôn nhân, nên bị cấm "nhằm ngăn chặn sự lây lan của văn hóa phương Tây".
Tại Brasil, ngày Dia dos Namorados (Ngày của các tình nhân) được tổ chức vào ngày 12 tháng 6.
Trong khi đó, tại Trung Quốc và một số quốc gia châu Á, ngày truyền thống tình yêu là ngày 7 tháng 7 âm lịch, còn gọi là "Thất tịch".
Tại Việt Nam, lễ tình nhân mới du nhập vào thời gian gần đây và các đôi yêu nhau chủ yếu là giới trẻ, họ tặng hoa, socola, gửi thiếp, mời nhau đi ăn, hẹn hò, xem phim và nhiều hoạt động khác trong ngày Valentine. Vào ngày 14 tháng 2  năm 2008, nhiều cặp tình nhân đã tổ chức cưới tập thể dưới nước tại Hòn Mun, Nha Trang. Một hội thi hôn tập thể tại Đà Lạt cũng được tổ chức vào ngày này.

Tại sao tặng socola trong ngày Lễ Tình nhân?
Chocolate trở thành quà tặng trong ngày Valentine bắt đầu từ năm 1902. Một trong những slogan được dập nổi trên những miếng chocolate là "Be Mine" (Hãy là của anh/em). Nếm một miếng chocolate bạn sẽ cảm nhận được đầy đủ các vị chát đắng, ngọt bùi... Cũng giống như khi bạn nếm trải tình yêu có khi ngọt ngào, có lúc đắng chát, nhưng tình yêu luôn mang đến cho con người sự thích thú khi được trải nghiệm nó.
Socola đã vượt qua ranh giới của một món ăn bởi socola đem lại cho người sử dụng thứ cảm giác tuyệt vời mà dù người ta có ưu ái dành cho socola bao nhiêu từ ngữ cũng không đủ.
Socola là sự hòa quyện giữa cảm xúc, sự lãng mạn và tình yêu. Người Aztec tin rằng socola có nguồn cội từ tâm linh thuần khiết, từ nguồn năng lượng siêu nhiên, mãnh lực khêu gợi và cám dỗ. Socola được sử dụng rộng rãi như một thứ nghi lễ không thể thiếu trong các lễ đính hôn, tiệc cưới.

Ý nghĩa hoa hồng trong ngày lễ tình yêu
Hoa hồng là món quà cực kỳ tinh tế không gì thay thế được. Tương truyền rằng hoa hồng đỏ được coi là hoa thánh dành cho Thần Vệ Nữ, nữ thần Sắc Đẹp, màu đỏ tượng trưng cho tình yêu mãnh liệt. Truyện kể rằng Nữ thần Tình yêu được sinh ra với một đóa hồng màu trắng. Vì đau khồ trước cái chết của người chồng yêu thương, nữ thần đã vô tình để gai của hoa hồng đâm vào tay. Máu của người đã làm hoa hồng trắng trở thành hoa hồng đỏ. Từ đó hoa hồng đỏ trở thành biểu tượng của tình yêu. Và ngày nay, hoa hồng đỏ vẫn được người đời hiểu rằng đó là thông điệp “Anh yêu em” (Em yêu anh).
Màu sắc của hoa:
Hồng đỏ - Tình yêu đam mê của người này cho người kia. Là tình yêu nồng nàn mãnh liệt. Yêu điên cuồng.
Màu hồng - Tình yêu thât sự gắn liền với sự trong trắng. Tình yêu êm dịu nhẹ nhàng. Là một lời hứa tình yêu.
Màu vàng - Có người thì cho là hoa hồng vàng nghĩa là không chung thủy. Trong lúc đó người khác thì hồng vàng tượng trưng cho người tặng yêu bạn nhưng không biết có được yêu lại hay không?.
Màu trắng - Màu trắng là chứng nhân cho tình yêu trong sạch, trinh trắng, thanh cao, quí phái. Có ý nghĩa "yêu thầm lặng".
Màu hoa lavande - Tượng trưng cho tiếng sét ái tình.
Màu đỏ và trắng - Sự phối hợp giữa hoa hồng đỏ và trắng tượng trưng cho sự kết hợp giữa hai người.

Về lại làng Nôm - yên bình làng Việt cổ


Làng Nôm (Đại Đồng, Văn Lâm, Hưng Yên) hấp dẫn du khách bởi vẻ cổ kính, thanh bình vẫn giữ được qua hàng trăm năm tồn tại. Đây là ngôi làng Việt cổ còn lưu giữ được nhiều công trình kiến trúc cổ, cảnh quan thiên nhiên và phong tục tập quán vẫn mang đậm dấu ấn của một làng Việt cổ với quần thể di tích bao gồm những ngôi nhà cổ, chợ Nôm, cầu Nôm cùng các ngôi từ đường cổ của 7 dòng họ lớn trong làng.


nom_1
Đường vào làng.
nom_2
Con đường ven hồ giữa làng rợp bóng cau.
nom_3
Nét thanh bình.
nom_4
Con ngõ nhỏ uốn lượn sau ngôi đình cổ.
nom_5
Những ngôi nhà thờ họ lâu đời.
nom_6
Cây cầu đá cổ nối làng với chợ và chùa Nôm.
nom_7
Cổng làng cổ kính.


Cống phía sau làng Nôm.
Men theo con đường lát gạch đỏ là một cầu đá chín nhịp đầu rồng bắc qua sông Nguyệt Đức sang chợ Nôm đã tồn tại trên 200 năm. 
Ca dao xưa có câu:
"Đồng nát thì về cầu Nôm/ Con gái nỏ mồm về ở với cha"
Cây cầu rộng chừng 2m, được ghép bằng những phiến đá lớn, từ xa xưa đã trở thành phương tiện chính để người dân đi lại giao thương. xưa các cụ dựng bằng gỗ lim để giao thương,về sau làng có nhiều tiền của nên làm lại bằng đá. 

Chùa Nôm, có tên hiệu là “Linh Thông cổ tự”, xây dựng từ năm 1680, dưới nhà Hậu Lê và từng là ngôi đại tự hoành tráng nhất miền Kinh Bắc. Đây là ngôi chùa cổ còn bảo tồn gần như nguyên vẹn hơn 100 pho tượng cổ. 
Theo truyền thuyết, xưa kia chùa Nôm được xây giữa rừng thông cổ thụ nên còn có tên hiệu là “Linh Thông cổ tự”. 

Chùa Nôm ở tỉnh Hưng Yên được Trung tâm sách kỷ lục Việt Nam công nhận "Ngôi chùa có nhiều tượng đất cổ nhất nước". 
Các bức tượng ở đây được xác định là tiêu biểu cho nghệ thuật điêu khắc tượng thế kỷ 10-13. Ở chùa Nôm, tượng đất nằm ở khắp nơi. 
Dọc hai bên mỗi hành lang có đến 20 pho tượng lớn nhỏ, với các trạng thái mô tả con đường hành Phật. 122 pho tượng bằng đất như Tam thánh, Tam thế, A Di Đà, Phật bà, Bát bộ kim cương, Thập bát la hán... ước tính có hàng trăm năm tuổi. 
Một số nhà khoa học cho rằng có những pho tượng tiêu biểu cho nghệ thuật điêu khắc tượng thế kỷ 10-13.
Một cây hương bằng đá trong khuôn viên chùa Nôm.
Những ngôi mộ tháp của các vị thiền sư đã từng trụ trì tại chùa Nôm.