Trang

Chủ Nhật, 23 tháng 2, 2014

Khen voi ị cứt to !


Ở nghĩa trang Văn Điển…

Người hạnh phúc và người đau khổ
Đều gặp nhau trắng toát ở nơi này
Đều dài rộng như nhau vuông cỏ biếc
Đều ấm lạnh như nhau trong hơi gió heo may.

Ôi thiên nhiên, cảm ơn người nhân hậu
Những so le, người kéo lại cho bằng
Ít nhất cũng là khi nằm xuống
Trong mảnh gỗ rừng, dưới một vầng trăng…

Những nắm đất lặng thinh như trăm ngàn nắm đất
Ai hay đâu đây là những con người
Với bời bời nỗi niềm tâm sự
Đến bây giờ có lẽ cũng chưa nguôi…

Tôi đi giữa nổi chìm bao số phận
Người xưa vẫn đây mà, có xa cách chi đâu
Tôi thầm gọi. Sao không ai lên tiếng
Chỉ hoang vắng dưới chân và sương khói trên đầu…

Cháu bé nào đây, vài tháng tuổi
Rợn mình nghe tiếng gió khóc u oa
Một cái với tay giữa lưng chừng trời đất
Cõi đời này thôi thế đã qua…

Cụ già từ nơi đâu không rõ
Lặn lội tìm ai về thành phố xa xôi
Rồi vấp ngã trước một tia nắng quái
Con cháu, anh em là sỏi đá quê người…

Và em gái xinh tươi, hiền dịu
Bao trái ngọt chín vì em, em đã nhận được gì?
Tấm áo hoa chờ em vào tiệc cưới
Có ai ngờ thành áo liệm lúc em đi…

Trời rộng vô cùng, đất cũng rộng vô cùng
Bởi khoảng trống mỗi con người bỏ lại
Cái khoảng trống nhỏ nhoi bằng chính vóc họ thôi
Mà cả thế giới này cũng không sao bù nổi…

Cái chết vẫn rình ta sau từng ngưỡng cửa
Cua đường hẹp, chiều mưa, vài sải nước gần bờ
Ta chả là gì giữa bốn bề bất trắc
Chỉ tích tắc khôn lường ta đã hóa người xưa…

Ta đâu muốn ví đời mình cùng ngọn cỏ
Ngọn cỏ yếu mềm, ngọn cỏ nhỏ nhoi
Nhưng khi ta đã nằm dưới mộ
Cỏ vẫn xanh biêng biếc ở bên trời…

Trước thiên nhiên, con người như khách trọ
Như ảo ảnh chập chờn, thoáng đến, thoáng lìa xa
Chúng ta sống bên nhau, dẫu năm này tháng khác
Thì cũng vẫn chỉ là một thoáng giữa sân ga…

Mặt trời lặn rồi, mặt trời còn mọc lại
Ngôi sao rụng vào đêm vĩnh viễn chẳng luân hồi
Ta nghe rì rầm tiếng những hàng bia đá
Con ngưòi ơi! Hãy thương lấy Con Người…

Trần Đăng Khoa



Nhiều người bảo thần đồng Trần Đăng Khoa thơ chỉ hay ở thời trẻ con, mình thì không nghĩ thế. Thơ thiếu nhi của Trần Đăng Khoa chỉ hay cái thời xưa ấy thôi, chứ còn bây giờ đọc lại chả còn thích nữa, cả bọn trẻ con cũng không thích bởi nó thành mơ hồ với chúng. Thời bây bọn trẻ con tuyệt đối không được chơi mấy cái trò đào giun bắt dế nhé, bẩn kinh lên được, mất vệ sinh và tốn xà bông nữa.
Mình thích thơ Trần Đăng Khoa lúc bác này đã nhớn, nhiều bài hay kinh lên được. Thế nhưng mà tiếc là lão này chả có bài thơ tán gái nào ở độ tuyệt tác cả, thành ra lắm lúc đọc cũng thấy hẫng hụt bức bối giống mấy ông thầy tu cứ mơ đến món tiết canh lòng lợn mà chạnh lòng. Hoặc có thể có nhưng lão ý giấu tịt đi để làm của riêng, có lẽ là thế, bằng chứng là lúc đã già khú ra rồi mà lão còn cưa đổ được một mụ rất nõn nường đấy thôi.
Có mấy bài của Trần Đăng Khoa mà mình rất thích, đọc lên nghe hay miên man là: “Lính đảo hát tình ca”, “Hoa xương rồng nở”, “Mátxcơva- Mùa đông 1990” và nhất là bài “Ở nghĩa trang Văn Điển” một bài thơ giàu tính triết lý, nó dạy cho con người ta biết cách sống để cho đúng nghĩa một con người. Kiếp người là phù du, nó mơ hồ lắm, sống nay chết mai. Có thể ngay lúc này đây có một thằng nào đấy còn cười nhăn nhở với mình nhưng ngày mai đã có người báo tin rủ đi phúng điếu rồi. Buồn thê lương như thế đấy, vậy mà loài người lại chả ý thức được điều đó, người ta sống mà cứ mải hằm hè tranh giành với nhau để rồi bụp một phát là xong đời, vòng hoa che kín mộ, tiền giấy bay tả tơi…
Mà thôi chả tán thơ lão làm gì, như thế người đời lại bảo: “Úi giời, voi ị cứt to thì có gì làm lạ!”, và như thế mình lại mang tiếng là mượn mùi cứt thần đồng cho thơm lây thì tội nghiệp cái thân mình lắm!

TG: Trần Hồng Giang

ĐỂ CÂU QUAN HỌ XANH DÒNG TIÊU TƯƠNG

“Để câu Quan Họ xanh dòng Tiêu Tương…”
                                                          


( Nhà thơ Kiều Mai Ly trước dòng sông Tiêu Tương )

“Ai có về bên bến sông Tương
Nhắn người duyên dáng tôi thương
Bao ngày ôm mối tơ vương…”

Dòng Tiêu Tương xanh câu Quan Họ bên Hội Lim năm xưa mềm như một dải lụa nõn nường có còn lững lờ chảy?
Đó là một con sông cổ đã đi vào những giai điệu trữ tình của Nhạc sỹ  Văn Giảng khi xưa và vẫn còn xanh trong ký ức và những câu Quan Họ ngày nay với những liền anh, liền chị với xênh xang váy áo mớ bảy mớ ba trong ngày Hội Lim đầu xuân. Những người yêu mến vùng quê Quan Họ hẳn vẫn còn nhớ những câu chuyện xa xưa về vị vua Lý Thánh Tông và bây giờ đã đi dần vào huyền thoại. Đó là câu chuyện khi xưa vào những ngày hè, Vua thường hay đi thuyền rồng từ Thăng Long qua dòng sông Đuống ở vùng quê Gia Lâm, rồi dọc theo con lạch nhỏ để đến sông Tiêu Tương và lên núi Phật Tích (thuộc vùng đất Tiên Du, Bắc Ninh) du ngoạn và đọc kinh. Ngài rất vui và ung dung thư thái khi được trải lòng mình cùng với thiên nhiên giữa một vùng sông núi và cỏ cây đầy thơ mộng của vùng quê Kinh Bắc.
Dòng Tiêu Tương gắn liền với những địa danh của núi Tiêu và những khúc sông thuộc xã Đình Bảng và chảy qua những địa danh trù phú như đầm Phù Lưu, Đền Đô, Trịnh Xá…rồi đổ vào Sông Cầu, con sông nổi tiếng trong dân gian với những câu ca dao và gắn liền với lịch sử của quê hương Quan Họ. Nơi đây là nguồn cảm hứng cho biết bao văn nhân kẻ sỹ gắn bó với nét văn hóa đậm chất Kinh Bắc và những làng quê trù phú của vùng đồng bằng Bắc Bộ với những liền anh, liền chị giỏi giang nhưng không kém đa tình.
Cái tên Tiêu Tương cổ xưa luôn gợi nhớ hình ảnh về một dòng sông thơ mộng với những vạt bèo tây nổi trôi lững lờ và vẫn còn nở tím ngắt trong những ký ức xưa. Dòng sông ấy vẫn chở ăm ắp hồn quê Kinh Bắc cùng những kỷ niệm ấu thơ với bao hình ảnh thân cò lặn lội và  thân thương nơi xóm làng. Quê hương Quan Họ với những làn điệu dân ca trữ tình và đậm đà tình làng nghĩa xóm vẫn mời gọi và níu giữ bước chân bao người.
Từ xa xưa, dòng Tiêu Tương đã gắn liền với hình ảnh của chàng Trương Chi đa cảm và nàng công chúa Mỵ Nương xinh đẹp bởi những câu chuyện tình ám ảnh và day dứt. Vẻ đẹp tâm hồn của chàng Trương Chi  cùng tiếng sáo dìu dặt năm xưa và những chiều buồn với những áng bèo dạt mây trôi vẫn ngân lên đầy khắc khoải.Cuộc sống thanh bình bên dòng sông, cây đa, bến nước, sân đình…sẽ là nguồn cảm hứng vô tận cho bao tâm hồn thi sỹ đặc biệt là những vùng quê như Tiên Du của những liền anh, liền chị.



Những làn điệu Quan Họ trữ tình được họ cất lên và luyến láy rồi thả rơi lúc nào trên sông nước cùng mắt môi sóng sánh lá dăm của những liền chị mãi và như vẫn còn lúng liếng trước dòng chảy thời gian. Ngày Hội Lim cũng là mùa hát Quan họ và giao duyên trên dòng sông Tiêu Tương bởi những người trai thanh gái lịch của quê hương Kinh Bắc. Họ ngự trên những chiếc thuyền rồng được sơn son thiếp vàng và hơi ngả người chòng chành khi người đứng kẻ ngồi và những làn điệu quan họ cổ dường như cũng sóng sánh bóng nước được thả rơi cùng những luyến láy. Người Quan Họ truyền thống và cho đến cả hiện đại như bây giờ thì vẫn cứ luôn là mến khách, lioon là khiêm nhường,luôn là lịch lãm với những câu hát hát như bài “Mời trầu”:
Mấy khi khách đến chơi nhà
Đốt than, quạt nước, pha trà mời người xơi
Trà này quý lắm người ơi
Người xơi một chén cho tôi vui lòng…

Sự dùng dằng ấy có lẽ là một nét đẹp trong tính cách giao duyên riêng có của người Quan Họ. Khay trầu thơm được dâng lên mời du khách trên bờ theo dập dìu tiếng hát và những cái nắm tay. Niềm vui của chủ và khách đều tươi vui ánh mắt, rạng rỡ nụ cười khi những bàn tay của bao du khách đang đứng trên bờ giơ lên đón nhận từng miếng trầu cay cùng những ánh mắt sắc như dao cau của ngày đầu xuân:
“Trầu này trầu tính trầu tình
Ăn vào cho đỏ môi mình, môi ta…
Hội Lim với không khí ngày xuân cùng với tiếng lý lơi Quan Họ cứ ngất ngây tưởng như không thể nào dứt nổi. Khi nhịp Giã Bạn cất lên, sông nước Tiêu Tương cũng đang sóng sánh theo từng làn Quan Họ và không khí ngày xuân mãi còn dập dìu với khăn xếp áo the của các liền anh và cứ e ấp với áo yếm trúc bâu của các liền chị cùng với thắt lưng rực rỡ sắc màu   xanh, đỏ hay hồng thắm màu hoa đào. Dùng dằng câu hát  với nón quai Thao và ánh mắt như dao cau:
Người ơi người ở đừng về…
Có phải hồn thơ Quan Họ vẫn luôn thấm đẫm trong ký ức tuổi thơ và những kỷ niệm của mối tình đầu đơn phương với một liền chị với ngọt ngào câu ca Quan Họ mà nhà thơ tài hoa và đa tình Hoàng Cầm đã viết nên những câu thơ để đời trong bài Lá Diêu Bông? Hình ảnh chiếc lá huyền ảo giống như nỗi nhớ đeo đẳng suốt đời và trổ hoa trên những câu thơ của ông:
Váy Đình Bảng buông chùng cửa võng
Chị thẩn thơ đi tìm
Đồng chiều
Cuống rạ…”
Đó là hình ảnh những người phụ nữ Kinh Bắc khi xưa luôn nổi tiếng vì sự giỏi giang và đảm đang một vùng quê với câu ca dao “gái Nội Duệ Cầu Lim” với đồng chiều, cuống rạ. Các liền chị ấy hát Quan Họ say như mật ngọt, ánh mắt nồng nàn như rượu thơm Kinh bắc và đóa cười của họ  luôn đỏ tươi với môi trầu cắn chỉ và hàm răng đen còn rưng rức hạt na.
Không biết tự xa xưa đã có sự liên hệ nào giữa những làn điệu của quê hương Quan Họ với những câu Kiều của Nguyễn Du hay không, chắc lẽ ông đã từng đặt chân đến vùng quê Kinh Bắc khi xưa và để lại sự lưu luyến với những dấu ấn tại nơi này nên đã có những câu thơ như thế này chăng :
“Mành Tương phân phất gió đàn
Hương gây mùi nhớ, trà khan giọng tình”

Ngày nay có khá nhiều nhà nghiên cứu văn hóa dân gian cùng với các nhà thơ, nhà văn và những người yêu mến nét văn hóa Quan Họ cổ vẫn tìm đến đây. Họ không chỉ thưởng thức những câu đồng dao cổ được luyến láy đầy mê hoặc ấy mà còn hòa cùng làn điệu Quan Họ với người dân nơi này bên dòng Tiêu Tương. Tôi biết họ vẫn đang kiếm tìm và muốn được đi đến tận cùng với những luyến láy của làn điệu dân ca Quan Họ và những vần thơ cổ. Thật đáng quý vì họ yêu dân ca Quan Họ Bắc Ninh và cùng hòa nhịp sống với những người dân của Tổng làng Duệ Đông xưa ở nơi đây.
Những nét đẹp của văn hóa Kinh Bắc cùng với những làn điệu dân ca Quan Họ và hình ảnh Hội Lim bên dòng sông Tiêu Tương sẽ là những giá trị văn hóa phi vật thể vô cùng giá trị mà chúng ta phải có trách nhiệm gìn giữ và bảo tồn cho cả những thế hệ sau. Còn bây giờ khi đứng trước dòng Tiêu Tương, một nỗi buồn  thật xót xa và tiếc nuối bởi dòng sông sẽ chỉ còn xanh trong ký ức một thời đã qua như một dòng sông đượm màu cổ tích. Sông Tiêu Tương ngày nay không còn mềm như dải lụa bởi đã bị ngăn cách thành những những hồ nước và những bờ đất cắt ngang một cách không thương tiếc. Sao lại có thể tàn nhẫn như vậy cho một dòng sông chở đầy hồn quê Kinh Bắc? Những con đường chật hẹp đã cắt ngang dòng sông cùng sự mưu sinh nhọc nhằn. Dẫu vẫn một màu nước xanh nhưng không còn dòng chảy nên thơ như xưa nữa. Thật tiếc cho dòng Tiêu Tương uốn lượn như một dải lụa mềm đang quặn đau trong những tiếng sáo của chàng Trương Chi khi xưa cứ mãi còn xanh màu Quan Họ trong tâm thức bao người
Chúng ta hãy làm ngay những gì có thể để câu Quan Họ xanh dòng Tiêu Tương?

Tác giả bài viết: Phạm Thị Phương Thảo

Thứ Bảy, 22 tháng 2, 2014

Hội thơ nhạt vì tầm nhìn dưới cổng làng

Nguyễn Hoàng Đức



Ngày thơ lần thứ 12 của Việt Nam đã diễn ra thật xuôi chèo mát mái, êm đềm lặng lẽ trôi vào hư vô mặc dù người ta có đón rước trống phách pheng la linh đình nhưng hình như chỉ có rước gái, rước cờ, rước phướn nguy nga, còn thơ thì không thấy tăm hơi sủi bọt đâu, có lẽ đọng lại là các ông già với các câu lạc bộ hưu trí đã nổi lên theo kiểu “già chơi trống bỏi thơ”. Một ngày thơ qua đi như vậy có khác gì bèo bọt diễu hành trên sông Sài Gòn. Chúng diễu hành rầm rộ lắm, trôi dập dình tung tăng như không gì ngăn cản được, nhưng rồi ra đến cửa sông gặp đại dương lũ lượt sóng triều, biết mình không đủ kiến trúc xương sống như cá hoặc như những con tầu có khung chắc chắn, chúng lại quay về phía bờ bên tả (tính từ nguồn) lũ lượt khải hoàn ca cũng không gì cản được trong tâm cảm thụ động bất tài tuyệt đối, thôi thì cứ phó mặc cho dòng sông cuốn đi đâu thì đi.
Than ôi, ở đời cái bất hạnh lớn nhất là “Vô lại”, giống như loại đểu cáng ở đời có ai muốn gặp lại! Các nhà khoa học phát hiện: lớn như khủng long khi chết còn để lại hóa thạch, chứ rắn rết hay ký sinh trùng làm sao có hóa thạch! Bọt bèo mà có hóa thạch ư?! Một lời nói không đủ sức cho vách đá dội lại có là vô lại không?! Và mấy lời lèo tèo ngâm nga dù rước đèn hoa tăng âm trên sân khấu lòe loẹt mà rút cục chẳng đọng lại cái gì, thậm chí cả mấy chục năm tranh đua trèo lên mặt báo, rồi hấm hứ tranh nhau giật micro đọc thơ, có cả giải, cả chức… vậy mà thơ liệu có hóa thạch được không?
Than ôi nhắc lại cũng không thừa, khủng long còn mong hóa thạch, chứ bèo bọt ký sinh làm sao hóa thạch?! Mấy vần thơ lèo tèo chỉ dựa vào cảm xúc, cả đời người lại chỉ nặn bóp được một mẩu bài tủ, kiến trúc không có – tức là không xương sống, nhân vật không có tức không có nội dung hành động thì là bèo bọt ký sinh hay là khủng long? Làm nông dân vô danh thì còn được! Chót kiễng chân làm văn nghệ sĩ mà vô danh “vô lại” thì nỗi buồn này biết chất vào đâu? Thôi vậy tốt hơn hết là quên nỗi buồn đó đi! Nhưng mà quên nỗi buồn của cuộc sống ư? Cái đó người ta lại gọi là vô liêm sỉ, hay dễ hiểu là “vô sỉ”, tức không biết thẹn!
Ngày thơ thứ 12 có phải bèo bọt trôi trên sông không? Chúng ta hãy xem báo Kinh Tế Đô Thị viết bài “Ngày thơ Việt Nam 2014, tẻ nhạt và hài hước”. Báo viết:
 PGS Văn Giá – Trưởng Khoa Viết văn – Báo chí (ĐH Văn hóa) đã có những ý kiến khá thẳng thắn khi nhận xét về Ngày thơ 2014. Ông cho biết đã góp ý với nhiều vị trong Ban chấp hành Hội Nhà văn rằng hãy nên học tập theo các cụ ngày xưa. Hội làng được chia ra làm 2 loại: Hội chính và hội lệ. Hội chính thì cứ 3 – 5 năm tổ chức một lần cho đầy đủ nghi thức hoành tráng; còn hội lệ thì chỉ có mâm lễ, các quan viên, các bô lão thay mặt dân làng dâng lên đình cầu cho dân làng mạnh khỏe, an ninh, mùa màng tươi tốt. “Thế thôi. Chứ cứ như Hội thơ hiện nay, năm nào cũng “hoành” như thế này mệt lắm! Nhưng mệt có thể chịu được. Còn chuyện nội dung nữa, phải có cái gì mới nữa chứ. Mà năm nào cũng tổ chức thì lấy đâu ra cái mới. Lại… Nguyễn Y Vân”.Vậy là người yêu thơ lại phải chờ đợi và kỳ vọng vào mùa thơ năm sau. Hoàng Long”.
Đấy chúng ta hãy xem, một ông giáo sư khi nói về ngày thơ của quốc gia tại sao lại cứ lấy “mô hình làng” làm kiểu mẫu?! Người Việt có câu “có cứng mới đứng đầu gió”, người có học thì phải là ngọn cờ cho bà con nông dân, tại sao cứ bám đít bà con để học làm mô hình, có phải đó là cách theo chủ nghĩa Mao-it đưa các giáo sư về quê học không? Và có phải chính thế mà lễ hộ thơ chỉ là các cụ già hưu trí quê mùa, và nhạt vì người làng làm sao có nội dung tư tưởng hay kiến thức để đậm đà được?!
Người Việt hiện đại có câu “người giầu nhà quê không bằng ngồi lê thành phố”. Không bằng đây là về mọi lẽ. Từ một bát phở hay cái bánh bao nhà quê không có. Cho đến văn minh thành thị là những giá trị cho tinh thần nhà quê lại càng không có. Chính thế mà ở nhà quê cùng lắm có Văn hóa, chứ không thể có Văn minh như ở thành thị. Nhưng tại sao ở ta có vô số người muốn “bám đít” văn hóa làng xã nhà quê? Chẳng lẽ họ không tiến bộ trong quá trình học hành? Không! Họ cho rằng mình rất khôn, vì “chó cậy gần nhà, gà cậy gần chuồng, thuồng luồng nấp ao, còn tao nấp sau đít quần chúng dân làng”. Đem làng ra, nghĩa là cậy, làng ta đông, động đến hưu trí là đụng đến già làng, đụng đến chị em là đụng đến chợ đông rinh ríc… Và đem làng ra là hạ át chủ bài hay “phăng teo”, còn ai dám cãi. Than ôi, người Việt bảo “Khôn ngoan đến cửa quan mới biết”. Ra cửa quan là chỗ công đường, người ta mới tường ai có công lý, trí khôn hay lẽ phải, đằng này vừa ra cửa quan là lễ hội thơ, lại cứ rủ người ta chạy về ao làng để làm đám lục lâm “Thủy hử” diễn trò phục kích tì tõm ngụp lặn. Thế thì còn đọc thơ với ngâm nga cái nỗi gì?
Tôi nói đây hoàn toàn dựa trên hiện thực, vì bấu váy làng như vậy, mà trong bài ‘ngày thơ Việt Nam và những nhà thơ’ được đăng trên VOA, Một thi sĩ trực thuộc hội văn học nghệ thuật Bình Phước chia sẻ:
“Quê mùa lắm, không có rầm rộ đâu. Hình ảnh thế thôi chứ đi dự chán lắm, vì thành phần tham dự bây giờ chủ yếu là mấy ông già hưu trí nên chất lượng chán lắm. Nó trang trí nhiều, treo phông, treo màn cũng đẹp nhưng đi dự chán lắm, toàn thơ hưu trí nên chán lắm, những người làm thơ đàng hoàng đã ít rồi mà họ không đi dự nữa nên chán lắm, toàn mấy người đứt dây không à, mệt lắm, nói chung không có gì đáng quan tâm. Mình nghĩ ở chỗ khác cũng vậy, nhìn bề ngoài vậy thôi chứ chất lượng không có, người làm thơ đàng hoàng họ không đi, toàn mấy đám chập dật đọc thơ. Ngoài Văn Miếu không biết chứ ở tỉnh lấy người đâu ra, Sài Gòn làm gì có ai đâu, toàn mấy thằng điên điên…”
Sài Gòn có cả dăm triệu người mà không lấy đâu ra người, chỉ có vài người chập dật, điên điên làm thơ… Tại sao? Vì thơ là văn hóa quê mùa, lại có cả những giáo sư đã học rât cao nhưng cũng chỉ âm u văn hóa làng, thì làm sao có chỗ diễn ở thành phố lớn?
Tại sao thơ Việt nhỏ bé, tàn lụi? Vì nó cục bộ và ích kỷ! Tôi đã dự nhiều buổi sinh hoạt thơ, nói chung người ta chỉ ngong ngóng xem lúc nào mình được phần đọc thơ, chứ còn chẳng chịu nghe ai. Tôi đã về mấy làng thơ, mấy ông hưu trí cứ sán đến đọc thơ vào tai tôi, như thể nói “thơ chúng tôi hay lắm”. Tại sao họ không hiểu rằng chính họ phải nói “anh ơi, chắc anh có thơ hay, đọc cho chúng tôi nghe với”. Ít học nhất là dân học võ, bởi vì đó là cơ bắp võ biền. Nhưng khi thấy bậc thầy, họ luôn luôn thỉnh giáo. Người chơi cờ cũng vậy, gặp người cao cờ thì phải học nước đi. Đằng này mới à ơi mấy câu quê cáy lại cứ muốn chơi chèo lên cả đầu người chót vót, thì làm sao thơ lớn được?! Ngay cái lễ hội thơ cũng vậy, đó chỉ là cách khoa trương của đám thùng rỗng kêu to. Nếu ngày thơ đó được biến thành ngày biểu diễn một vở kịch thơ xem nào, có biến thành hương vị sâu sắc và trọng đại không? Nhưng than ôi, nếu vậy thì còn đâu “thị phần” của tấm bánh danh vọng? Than ôi người vĩ đại thì phải có danh vọng lớn như đại ngàn, cứ chăm nhặt sỏi hay vớt bèo như vậy, liệu có mong xương sống của mình được hóa thạch không?
Tại sao lễ hội thơ không ưu tiên cho những thủ khoa giật giải thơ những năm vừa qua, hay là họ cũng không muốn chia miếng bánh đó, hoặc giả cho rằng thơ những thủ khoa đó cũng chẳng có gì ngoài thành tích chạy giải? Than ôi, một tổ chức mà còn khinh quên ngay cả giải của mình thì làm sao tránh được nhạt.
Tôi sẽ mổ xẻ tiếp chủ đề này trong vài bài tới, trước mắt là bài “Văn thơ Việt bé như manh chiếu hát xẩm”. Mong bạn yêu thơ sạch đón đọc. Cám ơn!


NHĐ  21/02/2014